-
Đang online:
1
-
Hôm nay:
1
-
Trong tuần:
1
-
Tất cả:
1
|
|
14/05/2025
Ứng dụng công nghệ sinh học: Cuộc cách mạng trong chọn tạo giống tại Việt Nam
Việt Nam, quốc gia xếp thứ 14 thế giới về đa dạng sinh học, đang tận dụng công nghệ sinh học để thúc đẩy phát triển nông nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) và nhu cầu ngày càng cao về an ninh lương thực. Công nghệ sinh học, nổi bật với kỹ thuật chỉnh sửa gen CRISPR/Cas9, đang mở ra một cuộc cách mạng trong chọn tạo giống, mang lại các giống cây trồng và vật nuôi có năng suất cao, kháng sâu bệnh, chịu hạn mặn, và thích ứng với điều kiện môi trường khắc nghiệt.
Theo PGS.TS. Vũ Thị Thúy Hằng (Học viện Nông nghiệp Việt Nam), công nghệ chỉnh sửa gen CRISPR/Cas9 cho phép chỉnh sửa gen nội sinh chính xác mà không cần đưa gen ngoại lai, đảm bảo an toàn sinh học và rút ngắn thời gian nghiên cứu. Các giống cây trồng mới có khả năng đáp ứng nhu cầu gia tăng dân số và suy giảm tài nguyên thiên nhiên. Tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Viện Lúa ĐBSCL đã lai tạo thành công 163 giống lúa OM từ năm 1977, chiếm 60–65% diện tích gieo trồng tại vùng. Các công nghệ như lai truyền thống, lai hồi giao, chỉ thị phân tử (MAS), chuyển gen (Bt, vàng hóa), và CRISPR/Cas9 đã được áp dụng. Tuy nhiên, hệ thống sản xuất giống tại đây còn phân tán, tỷ lệ sử dụng giống đạt chuẩn chỉ đạt 40%, và năng lực kiểm định chất lượng còn hạn chế.
Năm 2024, ngành trồng trọt Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu nông sản 62,5 tỷ USD, với gạo đạt kỷ lục 9 triệu tấn. Đã có 1.008 giống cây trồng được công nhận, gồm 455 giống lúa, 206 giống ngô, và nhiều giống cây ăn quả, cây công nghiệp. Hệ thống bảo hộ giống cũng được cải thiện với 1.249 bằng bảo hộ. Đặc biệt, ngô biến đổi gen (BĐG) được canh tác từ năm 2015 đã mang lại lợi ích kinh tế lớn, với thu nhập tăng 4,3–7,3 triệu đồng/ha so với giống truyền thống, đạt tổng lợi ích 255–432 triệu USD từ 2015–2021. Diện tích ngô BĐG năm 2024 đạt 450.000 ha, chiếm 50% tổng diện tích ngô cả nước.
Ngô biến đổi gen mang lại lợi ích kinh tế lớn, chiếm 50% diện tích ngô cả nước năm 2024. Ảnh: sưu tầm
Công nghệ chuyển gen cũng được ứng dụng trên các cây như lúa, khoai tây, cải bắp, đu đủ với các đặc tính như kháng rầy nâu, kháng bệnh bạc lá, tổng hợp vitamin A, và chín sớm. Trong lĩnh vực thủy sản, công nghệ gen đã đạt thành tựu như chuyển gen hormone sinh trưởng vào cá trạch, mở ra tiềm năng sản xuất protein giá trị cao, dù chủ yếu phục vụ nghiên cứu do lo ngại về tác động phụ.
Mặc dù có tiềm năng lớn, công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức. Theo TS. Đỗ Tiến Phát (Viện Công nghệ Sinh học), khung pháp lý chưa hoàn thiện khiến nhiều nghiên cứu chỉ dừng ở phòng thí nghiệm. Sự phụ thuộc vào giống nhập ngoại, nhận thức chưa đầy đủ, và nguồn lực nghiên cứu hạn chế cũng là rào cản.
Doanh nghiệp đang đóng vai trò quan trọng, với hơn 60% giống được công nhận năm 2024 do khu vực tư nhân nghiên cứu. Bà Nguyễn Thị Trà My (Tập đoàn PAN) nhấn mạnh chọn tạo giống là nền tảng của chuỗi giá trị nông nghiệp, và công nghệ sinh học, AI, chỉnh sửa gen là hướng đi mới. Tuy nhiên, ông Nguyễn Đình Trung (Tập đoàn Giống cây trồng Việt Nam) cho rằng doanh nghiệp gặp khó khăn do chính sách chưa đồng bộ, thiếu nguồn gen quý, và nhân lực chuyên sâu.
Hợp tác công–tư và quốc tế là yếu tố then chốt. Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã ký hợp tác với gần 200 doanh nghiệp, mang lại nhiều kết quả thiết thực. TS. Tô Thị Mai Hương (Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội) hợp tác với Đại học Quốc gia Gyeongsang (Hàn Quốc) để làm chủ công nghệ CRISPR/Cas9, ứng dụng trên lúa, đậu tương, và cà chua, như nghiên cứu tăng hàm lượng đường và axit amin trên giống cà chua PT18.
GS.VS.TSKH. Trần Đình Long (Hội Giống cây trồng Việt Nam) đặt mục tiêu đến năm 2035: lưu giữ 20.000–25.000 nguồn gen, chọn tạo giống có năng suất, chất lượng, chống chịu sâu bệnh, và thích ứng với BĐKH. Điều này đòi hỏi nâng cao năng lực nghiên cứu với các công nghệ như chỉnh sửa gen, giải mã hệ gen, và vi nhân giống sạch bệnh.
Để thúc đẩy ứng dụng công nghệ sinh học, các chuyên gia đề xuất một số giải pháp trọng tâm: hoàn thiện khung pháp lý với hướng dẫn cụ thể cho cây trồng chỉnh sửa gen nhằm đẩy nhanh thương mại hóa; tăng cường đầu tư nghiên cứu thông qua phát triển hạ tầng, hỗ trợ tài chính và đào tạo nhân lực chuyên sâu; thúc đẩy hợp tác quốc tế để chuyển giao công nghệ và nguồn gen tiên tiến từ các quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc; đồng thời, tăng cường liên kết công–tư, kết nối chặt chẽ giữa nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân để đưa các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững.
TS. Trần Ngọc Thạch (Viện Lúa ĐBSCL) nhấn mạnh rằng đầu tư vào công nghệ sinh học không chỉ giúp tăng năng suất mà còn đảm bảo an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp bền vững. Việt Nam cần tận dụng lợi thế đa dạng sinh học để tạo ra các giống cây trồng và vật nuôi mang thương hiệu “Make in Vietnam”, cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Công nghệ sinh học đang định hình tương lai nông nghiệp Việt Nam, với CRISPR/Cas9 là công cụ đột phá. Tuy nhiên, để hiện thực hóa tiềm năng, cần sự đồng hành của chính sách, đầu tư, và hợp tác chặt chẽ giữa các bên. Những bước đi đúng đắn hôm nay sẽ giúp Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà còn vươn lên dẫn đầu trong nông nghiệp công nghệ cao khu vực./.
Xuân Minh (TH)
|
|