image banner
Thông báo
image advertisement

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Nghiên cứu thử nghiệm đầu tiên ứng dụng tế bào gốc tự thân trong điều trị các bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não

Đề tài “Nghiên cứu sử dụng tế bào gốc tự thân trong điều trị nhồi máu não” thuộc Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng (KC.10/16-20) được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt đã do  PGS. TS Nguyễn Hoàng Ngọc - Chủ nhiệm đề tài cùng thực hiện với nhóm nghiên cứu thuộc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã được nghiệm thu.

Những nghiên cứu thử nghiệm đầu tiên trong việc ứng dụng tế bào gốc (TBG) tự thân trong điều trị các bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não (đột quỵ não) được nhóm nghiên cứu thực hiện thành công trên bệnh nhân đang điều trị tại Bệnh viện này. Thành công ấy đã mở ra niềm hy vọng mới cho các bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não, căn bệnh là nguyên nhân gây tử vong hàng thứ ba và là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế.

Tế bào gốc là những tế bào có khả năng tự đổi mới, tạo ra nhiều tế bào gốc tương tự nó và có khả năng biệt hóa thành tất cả hoặc một số dòng tế bào khác nhau. Từ tế bào gốc ban đầu, có thể biệt hóa thành các tế bào cơ tim, tế bào máu, tế bào gan hoặc tế bào thần kinh,… Khác với các tạng khác khi cấy ghép phải dùng các tạng từ người hiến. Với liệu pháp tế bào gốc, nguồn tế bào gốc có thể được lấy từ chính các tế bào trong cơ thể bệnh nhân (TBG tự thân) hoặc lấy từ tế bào của người khác (TBG dị thân). Tại Việt Nam, đã có nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị bệnh như ghép tủy trong điều trị ung thư máu, ghép tế bào gốc tạo máu trong điều trị thoái hoá khớp gối, nhồi máu cơ tim, xơ gan…

Nhóm nghiên cứu hướng đến mục tiêu xây dựng quy trình phân lập, bảo quản tế bào gốc tự thân sử dụng trong điều trị nhồi máu não. Đồng thời, xây dựng quy trình sử dụng tế bào gốc tự thân trong điều trị nhồi máu não. Đây là một trong những đề tài tiên phong trong đánh giá hiệu quả của tế bào gốc tạo máu trên bệnh nhân đột quỵ. Đã triển khai khám sàng lọc 162 bệnh nhân đột quỵ não, lựa chọn 92 bệnh nhân nhồi máu não vùng cấp máu động mạch não giữa, chia 3 nhóm: Nhóm 1: nhồi máu não động mạch não giữa, điều trị bằng TBG tủy xương đường tĩnh mạch (31 bệnh nhân); Nhóm 2: nhồi máu não động mạch não giữa, điều trị bằng tế bào gốc tủy xươngđường động mạch (31 bệnh nhân); Nhóm 3: nhóm chứng (30 bệnh nhân). Các bệnh nhân này đang được khám và điều trị tại Trung tâm Đột quỵ não, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Bệnh nhân đảm bảo các tiêu chí chẩn đoán đột quỵ dựa vào lâm sàng và hình ảnh và không có một trong các tiêu chuẩn loại trừ.

Đồng thời, thực hiện thu gom, chiết tách, xử lý, bảo quản và đánh giá chất lượng khối tế bào gốc tủy xương tự thân trên bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não. Cùng với đó, xây dựng chỉ định, quy trình sử dụng tế bào gốc tủy xương tự thân điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não; đánh giá kết quả điều trị bằng tế bào gốc tủy xương tự thân trên bệnh nhân đột quỵ não.

Kết quả, nhóm nghiên cứu đã xây dựng thành công và làm chủ quy trình sử dụng tế bào gốc tủy xương tự thân trong điều bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não. Quytrình phân lập, bảo quản, đánh giá chất lượng tế bào gốc tuỷ xương tự thân sử dụng trong điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não. Đồng thời, chỉ định, quy trình sử dụng tế bào gốc tủy xương tự thân qua đường tĩnh mạch ngoại vi điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não. Chỉ định, quy trình sử dụng tế bào gốc tủy xương tự thân qua đường can thiệp nội mạch điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não.

Về kết quả sử dụng khối tế bào gốc tủy xương tự thân trong điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não, theo nhóm nghiên cứu, nhóm bệnh nhân được truyền tế bào gốc có kết quả tốt hơn nhóm chứng tại thời điểm 6 tháng có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, truyền tế bào gốc tuỷ xương tự thân đường động mạch và tĩnh mạch là phương pháp điều trị an toàn trong thời gian điều trị và theo dõi sau 6 tháng. Đây là phương pháp điều trị an toàn, không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về biến cố bất lợi và tỷ lệ tử vong giữa nhóm điều trị và nhóm chứng trong và sau thời gian điều trị 6 tháng.

Đề tài đã đưa ra phương pháp hiệu quả trong cải thiện chức năng cho bệnh nhân nhồi máu não, giảm bớt các chi phí điều trị cho phục hồi chức năng. Bên cạnh đó, việc trả lại chức năng cho bệnh nhân trong đó có những bệnh nhân có thể quay lại với công việc đã giúp giảm gánh nặng phụ thuộc, giúp giảm chi phí cho người bệnh./.

Thái Hương (TH)

 

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ TỈNH NGHỆ AN